
lundi 26 novembre 2012
Nói với bạn bè
Nói với bạn bè

Nói với bạn bè
Tao bây giờ đã thành người tha phương
Đất Mỹ tự do… mà vẫn thấy buồn
Mười mấy năm tù khổ thì có khổ
Nhưng bạn bè cùng một nỗi nhớ thương
Tao bây giờ đã bắt đầu bơ vơ
Đường phố thênh thang không đợi không chờ
Một cái bắt tay cùng lời hờ hững
Mầy hả mầy… tìm ra job hay chưa ?
Cắt chỉ một giờ – một hai đồng bạc
Đôi tay đau ngơ ngác nhớ chiến trường
May được ngày xưa trải thời huấn nhục
Để bây giờ quen với chuyện thê lương
Tao bây giờ tìm tao trong quanh quẩn
Một quán cà-phê dăm đứa bạn đời
Vẫn còn đó niềm đau ngày Quốc Hận
Để thấy lòng còn xa xót khôn nguôi
Nhớ bạn bè nhớ không tròn nỗi nhớ
Ngày Bình Long – Rạch Bắp đến Cây Trường
Thằng banh xác biết đâu ngày mất nước
Thằng quặt què chồng thêm nỗi tai ương
Tao bây giờ không tiền mua rượu uống
Mà vẫn say… say ngút với nỗi buồn
Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước
Mấy chục năm ròng – Nước vẫn tang thương
Nhạc & tiếng hát Nguyễn Văn Thành
Bỏ Làng ra đi
Đem theo những trái tim đau với đôi dòng lệ máu
Bỏ làng ra đi, Bỏ làng ra đi
Đem theo tóc trắng mẹ yêu đôi bàn chân ốm yếu
Đem hương khói với khăn tang phận buồn nơi đất lạ
Đem theo tiếng ru trưa đong đưa sầu nhịp võng nhớ
Đem theo mây trắng
Đem theo ánh nắng sưởi ấm lòng người xa quê
Những ngày dài trong mê
Bỏ làng ra đi, Bỏ làng ra đi
Thương sao mái lá thân yêu xé tan trong lửa khói
Bỏ làng ra đi, Bỏ làng ra đi
Thương sao mái ngói rêu nâu ngôi trường xưa bóng mát
Thương sao dáng bước trâu non cánh diều cao gió lộng
Thương sao tiếng hát đưa đò trên dòng sông xanh sóng
Thương sao nương lúa
Ôi sao thương quá, thương những gì của dân tôi
Những gì của quê tôi
Điêp Khúc:
Hởi! sông xanh núi biếc, Hởi! phố mới người vui
Bao giờ chưa trở lại
Ngôi làng xưa phố cũ, Lòng tôi chưa được vui
Dẫu mắt em sáng ngời, Với bầu trời trong mới
Hởi! Con trâu bó lúa, Hởi! Nhánh bí hàng cau
Mai nầy tôi trở lại,
Dẫu làng xưa đổ nát, bàn tay tôi còn đây
Với trái tim chưa già. Ôi, ngày về bao xa!
Bỏ làng ra đi, Bỏ làng ra đi
Đem theo tiếng nói quê hương với con tim còn nóng
Bỏ làng ra đi, Bỏ làng ra đi
Đem theo áo cưới năm xưa cho hồn bớt mênh mông
Đem thương nhớ xoá cơn mưa kinh trời cao đất rộng
Cho tôi thấy đêm ru vạn trăng cài trên phố mới
Cho tôi cơm áo
Cho tôi vui sống, cho hận thù rời xa tôi
Thanh bình về quê tôi
dimanche 25 novembre 2012
mercredi 21 novembre 2012
mardi 20 novembre 2012
samedi 17 novembre 2012
mardi 13 novembre 2012
vendredi 2 novembre 2012
jeudi 25 octobre 2012
mardi 23 octobre 2012
Lời kêu gọi của Tuổi Trẻ Yêu Nước

vendredi 19 octobre 2012
jeudi 11 octobre 2012
Trần Trịnh
Tác phấm đầu tay của ông là Cung Đàn Muôn Điệu, sáng tác năm 1954.
Tác phẩm đã làm cho ông nổi tiếng là "Chuyến xe về Nam", sáng tác năm 1955.
Ông đã phổ bài thơ "Hai Sắc Hoa Ti Gôn" của T.T.KH. vào năm 1958.
Từ năm 1958-1968, ông tạm ngưng sáng tác để nghiên cứu về nhac.
Năm 1968, ông sáng tác bản "Lệ Đá", và cùng năm ông điều khiển chương trình Đại Hợp Tấu và Hợp Xướng "Đống Đa" trên đài truyền hình.
mercredi 10 octobre 2012
mardi 9 octobre 2012
Máu Và Nước Mắt

lundi 8 octobre 2012
dimanche 7 octobre 2012
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông
lê hữu
“Anh như ngàn gió,ham ngược xuôi theo đường mây… ”
(Mấy dặm sơn khê, Nguyễn Văn Ðông)
H ôm ấy, tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở một quán nước quen dọc bờ biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ. Ðã lâu lắm chúng tôi mới gặp lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị trấn miền cao nguyên đất đỏ. H. cho biết anh sắp sửa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi như thế này sẽ chẳng còn được bao lâu nữa. Anh ta có người yêu ở thành phố biển này. Tôi thì vẫn lang thang trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch trong tay vẫn còn hiệu lực…

Kim Tước

MỘC LAN

Bây giờ bà về dung thân ở một căn nhà có diện tích rất nhỏ, cuối tận cùng con hẻm, đi ngang qua nhà họa sĩ Lưu Nhữ Thụy trên đường Trương Minh Giảng cũ. Bà hiện hữu rất cô độc, càng cô độc hơn khi sống bên cạnh bà là người con gái ngoài 50 tuổi có cân não không bình thường.
samedi 6 octobre 2012
lundi 1 octobre 2012
Lệ Thu

Trong khi đang theo học bậc trung học Pháp tại trường Les Lauriers, vào năm 1959 trong một lần đến phòng trà Bồng Lai nghe nhạc, do sự khuyến khích của bạn bè, Lệ Thu bước lên sân khấu trình bày nhạc phẩm Dang dở. Ngay sau đó, ông chủ phòng trà đã mời Lệ Thu ký giao kèo biểu diễn. Cũng từ đó cô lấy nghệ danh Lệ Thu, trong một cuộc phỏng vấn, Lệ Thu trả lời: "Tôi lấy tên Lệ Thu vì tôi giấu gia đình. Thật ra tên đó nó không có trong tiềm thức của tôi nhưng tự nhiên nó bật ra, tôi không hiểu từ đâu". Sau khi nhận lời cộng tác với phòng trà Bồng Lai, Lệ Thu vẫn tiếp tục đi học nhưng một thời gian sau cô quyết định nghỉ học để theo đuổi con đường ca hát.
Theo sau Bồng Lai, Lệ Thu cộng tác với Trúc Lâm Trà Thất của nhạc sĩ Mạnh Phát và kế đó là vũ trường Tự Do vào năm 1962. Thời kỳ đó Lệ Thu thường trình bày những nhạc phẩm lời Pháp và Anh, nổi bật nhất là các bản như La Vie En Rose, A Certain Smile, La Mer, Love Is A Many Splendored Thing... Cũng thời gian đó Lệ Thu thành hôn với một người đi học ở Pháp về tên Sơn.

Lệ Thu tham gia các chương trình ca nhạc trên các đài phát thanh Sài Gòn, đài Quân Đội và Mẹ Việt Nam và thu âm cho nhiều băng nhạc. Cùng với Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu là một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất của Sài Gòn cho tới 1975. Sau cuộc hôn nhân đầu đổ vỡ, Lệ Thu kết hôn với ký giả Hồng Dương nhưng hai người chia tay sau khi có một con gái tên Thu Uyển.
Trong sự kiện tháng 4 năm 1975, Lệ Thu quyết định ở lại Việt Nam vì còn mẹ, dù ngày 28 tháng 4 cô đã tới phi trường, bước chân máy bay nhưng rồi quay về. Lệ Thu gia nhập đoàn Kim Cương để đi trình diễn. Thời gian đó Lệ Thu hát những ca khúc nhạc mới và cũng có những thành công như bài Hà Nội niềm tin và hy vọng của Phan Nhân. Khoảng năm 1978, Lệ Thu có mở một hàng cà phê mang tên con gái út là Thu Uyển trên đường Phan Tôn, Tân Định với sự cộng tác của Thanh Lan và nhạc sĩ Lê Văn Thiện.

Tại Hoa Kỳ, Lệ Thu tiếp tục đi hát, tái ngộ với khán giả trong một buổi trình diễn đặc biệt do Nam Lộc tổ chức tại Beverley Hills. Sau đó cô cộng tác cùng các vũ trường như Tự Do, Làng Văn và Maxim's. Năm 1981 Lệ Thu thực hiên băng nhạc đầu tiên của mình ở hải ngoại mang tên Hát trên đường tử sinh. Tiếp theo là những băng Thu hát cho người gồm nhiều ca khúc đã gắn liền với tên tuổi của cô.
Đến nay Lệ Thu vẫn tiếp tục ca hát. Sau khi con cái trưởng thành và lập gia đình, Lệ Thu sống một mình ở thành phố Fountain Valley.
Ngày 22 tháng 6 năm 2007, Lệ Thu tham gia chương trình đêm nhạc Trịnh "Rơi lệ ru người" theo ý tưởng của Tib Hoàng, cháu gái Trịnh Công Sơn cùng với các ca sĩ Hồng Nhung, Mỹ Linh, Quang Dũng, Cẩm Vân, Thu Minh, Nguyên Thảo và đạo diễn Phạm Hoàng Nam.


Lệ Thu dần nổi tiếng và trở thành một ca sĩ quan trọng của các vũ trường lớn ở Sài Gòn. Trong những năm 1968 đến 1971, tiếng hát Lệ Thu là một trong những yếu tố đưa khách đến với các vũ trường Queen Bee, Tự Do và Ritz. Năm 1968, Lệ Thu về cộng tác với chương trình Jo Marcel tại vũ trường Queen Bee. Ngoài việc đi hát hàng đêm cô còn ký giao kèo thu thanh băng nhạc cho Jo Marcel, khởi đầu cho một thời kỳ vàng son nhất trong cuộc đời đi hát. Đến giữa năm 1969, Lệ Thu cùng với chương trình Jo Marcel dời về vũ trường Ritz trên đường Trần Hưng Đạo. Năm 1970 Lệ Thu trở lại với vũ trường Tự Do cho đến khi vũ trường này bị nổ hơn một năm sau.
Lệ Thu tham gia các chương trình ca nhạc trên các đài phát thanh Sài Gòn, đài Quân Đội và Mẹ Việt Nam và thu âm cho nhiều băng nhạc. Cùng với Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu là một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất của Sài Gòn cho tới 1975. Sau cuộc hôn nhân đầu đổ vỡ, Lệ Thu kết hôn với ký giả Hồng Dương nhưng hai người chia tay sau khi có một con gái tên Thu Uyển.
Trong sự kiện tháng 4 năm 1975, Lệ Thu quyết định ở lại Việt Nam vì còn mẹ, dù ngày 28 tháng 4 cô đã tới phi trường, bước chân máy bay nhưng rồi quay về. Lệ Thu gia nhập đoàn Kim Cương để đi trình diễn. Thời gian đó Lệ Thu hát những ca khúc nhạc mới và cũng có những thành công như bài Hà Nội niềm tin và hy vọng của Phan Nhân. Khoảng năm 1978, Lệ Thu có mở một hàng cà phê mang tên con gái út là Thu Uyển trên đường Phan Tôn, Tân Định với sự cộng tác của Thanh Lan và nhạc sĩ Lê Văn Thiện.
Tháng 11 năm 1979, Lệ Thu cùng con gái út vượt biển đến Pulau Bidong, sau đó sang Mỹ vào giữa năm 1980. Hai năm sau hai người con gái lớn của Lệ Thu cũng vượt biên và đoàn tụ với Lệ Thu tại nam California.
Tại Hoa Kỳ, Lệ Thu tiếp tục đi hát, tái ngộ với khán giả trong một buổi trình diễn đặc biệt do Nam Lộc tổ chức tại Beverley Hills. Sau đó cô cộng tác cùng các vũ trường như Tự Do, Làng Văn và Maxim's. Năm 1981 Lệ Thu thực hiên băng nhạc đầu tiên của mình ở hải ngoại mang tên Hát trên đường tử sinh. Tiếp theo là những băng Thu hát cho người gồm nhiều ca khúc đã gắn liền với tên tuổi của cô.
Đến nay Lệ Thu vẫn tiếp tục ca hát. Sau khi con cái trưởng thành và lập gia đình, Lệ Thu sống một mình ở thành phố Fountain Valley.
Năm 1963 hay 1965 gì đó, tôi được nghe Lệ Thu hát bản "Xin Mặt Trời Ngủ Yên" của Trịnh Công Sơn trong dĩa nhựa microsillon. Cách gào rống vô cùng độc đáo đến mức trác tuyệt khi cô hát lên cao làm tôi ngưỡng mộ nồng nhiệt. Cũng như bài "Summertime", bài "Xin Mặt Trời Ngủ Yên" là bài
Blue có chổ lên cao, chỉ có cách gào rống mới diễn tả nổi cái đau banh gan xé ruột. Ở bài "Summertime" là nổi đau trong kiếp nô lệ nhục nhằn của người Mỹ da đen.
Ở bài "Xin Mặt Trời Ngủ Yên" là nổi đau đớn lớn của kiếp nhân sinh. Gào rống mà tiếng hát vẫn giữ vững cao độ, không sai một bán cung lại còn ngân nga rựa ràng như trường hợp Lệ Thu đâu phải dễ. Giọng hát Lệ Thu cao nên cô trình bày các ca khúc Tây phương có chổ lên cao như "Come Back To Sorrento" của De Curtis, bản "Tristesse" của Chopin, bản "Serenata" của Enrico Tosselli, bản "Rêveries" của Robert Schumann đều hay, nhưng chỉ giúp cô nổi tiếng ở phòng trà Tự Do, chứ chưa đưa cô vào môi trường khách sành điệu lẫn khán thính giả thời thượng bên ngoài. Và theo tôi, chính những ca khúc theo thể điệu Blue mới làm nổi bật cái độc đáo của tiếng hát cô.
Tuy nhiên, ca khúc "Xin Mặt Trời Ngủ Yên" chỉ là cái cửa mở ngỏ để cô đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn nhưng chưa phải là cái thang để cô leo lên tuyệt đỉnh vinh quang.
Thật ra, Lệ Thu được khán thính giả bốn phương ngưỡng mộ qua bài "Ngậm Ngùi" của Phạm Duy. Đây là một trường hợp ngộ nghĩnh. Vào thuở cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, nhạc sĩ Lê Thương có phổ bài thơ này thành ca khúc "Tiếng Thuỳ Dương" và chỉ được vài ca sĩ đài phát thanh Pháp Á hát vài lần là bị xếp im lìm trong kho tàng nhạc sử nước nhà. Sau đó rất lâu, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc "Ngậm Ngùi" có nhờ Anh Ngọc thu vào dĩa microsillon để giao duyên với giọng ngâm của Hoàng Oanh.
Bài hát vẫn không được ai chú ý. Chỉ có bài thơ của Huy Cận và giọng ngâm sắc vút của Hoàng Oanh là còn gây dư vang và tình ý trong lòng khách mộ điệu mà thôi.
Phải đợi giọng diễn tả của Lệ Thu, bài hát mới nổi danh như cồn. Nhờ vậy, Lệ Thu trở thành một ngôi sao sáng tuyệt vời trên vòm trời ca nhạc.
Có vậy, khi tiếp tục hát thêm các ca khúc của Trịnh Công Sơn, cô mới cùng Khánh Ly làm nổi tiếng các tác phẩm của anh chàng du ca tài ba lỗi lạc này.
Khi bài "Ngậm Ngùi" nổi tiếng kỷ lục thì nhạc sĩ Phạm Duy khoái quá, sáng tác bài "Nước Mắt Mùa Thu", lấy ý từ cái tên Lệ Thu để tặng người ca sĩ này.
Thật ra thì cái tên Lệ Thu là cái tên khá phổ thông từ thuở xưa. Nhưng Lệ không có nghĩa là nước mắt mà là đẹp: diễm lệ, mỹ lệ, thanh lệ, tú lệ, kiều lệ. Lệ Thu là mùa thu đẹp.
Còn tiếng hát Lệ Thu thì sao? Tiếng cô khàn mà cao vút. Khi lên cao, cô vẫn giữ giọng thật, cô rống lên thật vang dội để cho tiếng trải đều ra, vạm vỡ và dũng mãnh như thác nước Niagara. Những bản "Hương Xưa", "Hoài Cảm" của Cung Tiến, "Chiếc Lá Cuối Cùng" của Tuấn Khanh, "Ngày Đó Chúng Mình" của Phạm Duy là những bản để cô biểu diễn giọng cao như bay vút tận trăm tầng cổ tháp và rắn rỏi như đá hoa cương của mình.
Giọng cao mà khàn khàn, dòn và sáng. Nhưng chuỗi ngân của cô không đều, hơi thô rít, làn hơi cô hơi ngắn, phải tinh tai lắm mới thấy cô vá víu làn hơi và chuỗi ngân của mình. Cô trình bày bản nhạc đơn giản, không ỏng ẹo điệu đà nên tiếng hát dễ đi sâu vào tâm hồn người thưởng ngoạn.
Tiếng hát của Lệ Thu làm cho chúng ta nghĩ đến một trái hỏa châu bắn vọt lên không trung để tỏa ngời ánh sáng. Nó cũng giống như cây pháo Phi Thiên Thập Hưởng khi đốt phải phóng lên không trung để cho tiếng vang xa như sấm rền. Và qua những chuyện thần thọai của Trung Hoa, chúng ta có thể nghĩ đó là con giao long tu luyện lâu năm nên khi đắc đạo bay vọt lên chín từng mây biếc, thóat khỏi kiếp sấu để biến thành con rồng thiêng về chầu đức Ngọc Hòang Thượng Đế. Nó cũng như con phụng từ đỉnh cao chót vót đáp xuống rừng xanh,
dimanche 9 septembre 2012
MÙA THU Trong Tình Ca Việt

"Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đámmây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường… Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy giá lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm Nay Tôi Đi Học..." Tôi còn nhớ mãi bài "Tôi đi học" của nhà văn Thanh Tịnh hồi mới lên trung hoc đệ nhất cấp. Do đó mùa thu vẫn là đề tài được bàn tán muôn thủa bởi những nhà văn, nhà thơ hay những nhạc sĩ trong kho tàng văn chương hay âm nhạc Việt Nam . Người ta ca tụng mùa thu, bối cảnh mùa thu được dàn dựng trong những tác phẩm của họ như những không gian lá vàng rơi hay những chia ly buồn bã. Tôi yêu mùa thu từ bản chất, yêu cả những bản nhạc mùa thu. Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài này, tôi cố gắng đưa ra một số bài tiêu biểu của những nhạc sĩ đã sáng tác những tác phẩm về mùa thu. Tôi vốn thích bản thu ca tiền chiến của nhac sĩ Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Cuối thập niên 50 khi tôi còn học tiểu học, thầy giáo của tôi di cư từ miền Bắc vào. Ông có một tâm hồn nhạc sĩ, chính ông đã để lại trong tôi một ấn tượng thật tuyệt vời của một mùa "Thu quyến rũ":
"Anh mong chờ mùa thu
Trời đất kia ngả màu xanh lơ
Đàn bướm kia vui đùa trên muôn hoa
Bên những bông hồng đẹp xinh
Anh mong chờ mùa thu
Dìu thế nhân vào chốn thiên thai
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
Mùa thu quyến rũ anh rồi …"
Thu Quyen Ru-Anh Tuyet
http://www.youtube.com/watch?v=DJHeid5m2hQ&feature=related
image
Trong bối cảnh buồn bã nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói về mùa thu của ông qua đi khi "Nhìn những mùa thu đi". Thu đi và để lại cho chúng ta những chia ly, những nuối tiếc sầu rơi, những ý nghĩ riêng tư man mác trong tâm hồn:
"Nhìn những mùa thu đi
Em nghe sầu lên trong nắng
Và lá rụng ngoài song
Nghe tên mình vào quên lãng
Nghe tháng ngày chết trong thu vàng ..."
Nhìn những mùa thu đi - Khánh Ly
http://www.youtube.com/watch?v=gOY_fHWlqWg&feature=related
image
Khi người ta yêu nhau thì mọi thứ đều từ thiện, người ta sẽ cho nhau tất cả, từ những tháng ngày, những tặng phẩm quý báu, cho con tim, cho nhau kỷ niệm, ... với nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ông cho người tình cả một bầu trời mùa thu tuyệt vời về nhạc và lời ca . Bài "Mùa thu cho em" được ra đời năm 67. Chính bài ca này đã đánh thức tôi những cái đáng yêu của một mùa thu tình ái:
" Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
Em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương
Và em có nghe khi mùa thu tới
Mang ái ân mang tình yêu tới
Em có nghe, nghe hồn thu nói
Mình yêu nhau nhé ..."
Mùa Thu Cho Em
http://www.youtube.com/watch?v=ByFnjjhqMVg
Mùa thu là mùa của nỗi buồn, của chia tay, của những mối tình dang dở. Ở tuồi còn đi học, những nam sinh vẫn có những kỷ niệm đến đứng ngẩn ngơ ở cổng trường con gái như những cửa trường Gia Long, Nguyễn Bá Tòng, Sương Nguyệt Ánh hay Trưng Vương. Để rồi "Em tan trường về, mưa bay mờ mờ, anh trao vội vàng chùm hoa mới nở, ép vào cuốn vở”. Người con gái như đóa hoa hồng, hoa pensé, hoa mimosa hay hoa phượng hồng như môi em. Một nụ hôn đầu ngất ngây để rồi nhung nhớ mãi mãi về sau. Mùa Hạ đến rồi mối tình chia ly vì lý do nào đó… Để rồi khi sang mùa thu, mùa tựu trường cô gái Trưng Vương nhìn lá vàng rơi ngoài đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo gió heo may vi vu để nhớ đến người bạn trai xưa với nụ hôn đầu nồng nàn. Nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ Nam Lộc đã soạn thành một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến của tuổi học trò:
"Tim em chưa nghe rung qua một lần!
Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần
Tình trần mong manh như lá me xanh Ngô ngác rơi nhanh
Thu giăng heo may che bóng cây lạnh này
Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày…
Người mang cho em quen môi hôn ngọt mềm
Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng…
Nắng vấn vương nhẹ gót chân
Trưng Vương vắng xa anh rồi
Mùa thu đã qua một lần
Chợt nghe bâng khuâng lá rơi đầy sân...”
Trung Vuong Khung Cua Mua Thu
http://www.youtube.com/watch?v=QqwcJGPtquo
image
Mùa thu của những tình tự yêu đương, đã lôi cuốn người nhạc sĩ đã dùng bối cảnh thu ca như trong nhiều tác phẩm của ông về mùa thu, Phạm Anh Dũng đã tâm sự những nồng nàn, những cụm từ truyền cảm của ông qua bài "Gọi mùa thu mơ"
"Anh gọi mùa thu mơ
Một sớm thu sương mờ
Nai vàng đạp trên lá
Bước từng bước xa xa...
Anh gọi mùa thu mơ
Trời sớm sông không bờ
Lá vàng rơi lác đác
Dịu dàng cơn gió bay
Anh hẹn mùa thu sang...
Gọi Mùa Thu Mơ (Phạm Anh Dũng) Xuân Thanh
http://www.youtube.com/watch?v=fB9K5g_PgtM

Mùa thu để chúng ta ru người tình. Khi mùa thu tới người nhạc sĩ hát khúc thu ca để dìu người yêu vào giấc điệp bình yên, Đức Huy đã ru người tình của mùa thu như sau:
"Hôm mùa thu gió hát bài ca cũ
Mùa thu lá vàng bay
Anh ru em ngủ
Bài ca dao ta vẫn hát khúc ấu thơ
Nắng vàng ấm suối nước dệt mây thu
Ngập ngừng trôi giấc mơ
Anh ru em ngủ
Dài cơn mê thương yêu ấy
Những ngày còn ái ân..."
Còn mùa thu của Từ Công Phụng thì như thế nào? Ông ru người yêu về với mùa thu dịu dàng, du dương với những lối ru nhẹ nhàng, dấu yêu của mây ngàn bay, hãy nghe bài "Mùa thu mây ngàn":
"Buồn vương mây ngàn giăng khắp lối
Mùa thu bơ vơ đến bên trời
Ru tóc em suối nguồn
Gọi hồn trong gió thu buồn
Ngày mai chúng mình xa nhau rồi
Cầm tay em nhìn sao không nói ..."
Mùa Thu mây ngàn - Tuấn Ngọc & Thái Hiền
http://www.youtube.com/watch?v=oO0Nt9q92Gg
image
Tuần rồi tôi tình cờ được nghe bài "Dáng thu", người nhạc sĩ đã âu yếm so sánh vẻ đẹp kiều diễm, đài các của mùa thu như người thiếu nữ trong những dòng nhac thu ca . Nhật Vũ đã dìu người tình qua vũ điệu Tango:
"Dáng thu vơi buồn như thương nhớ ai
Dáng thu về đây mùa thu ơi ai có hay
Ta vẫn ngắm mây trời
Thương về tóc buông lơi
Thương nhớ mãi nụ cười
Bờ môi xinh như mộng
Từ ngày em đi
Đã bao lần thu về rồi ?
image
Dáng Thu Về
http://www.youtube.com/watch?v=niSFJeziiYk
Lại một tình cờ khác tôi lắng nghe tiếng đàn của một người nhạc sĩ Mai Đức Vinh bên phương trời Canada, ông cho chúng ta nghe một bản tình ca quyến luyến và nhiều vương vấn của người thiếu nữ trong giấc mơ thu của ông "Thu về hôm nao", thơ Pham Anh Dũng:
".....Này em nhé mắt nâu qua rừng thu
Trong bóng thời gian nhả tiếng sương mù
Chiều rơi lá chín thương em hương lụa
Anh nhặt thu về xây tím áng thơ
Chiều sao hoang vắng vàng phai sắc lá
Anh viết tình thu trên môi em thôi ."
Một chiều thu đến để rồi Phan Bá Chúc đã làm thơ, đã phổ nhạc từ khung trời yêu thương Đà Lạt qua ca khúc thật trữ tình và đáng yêu, "Tôi có em chiều thu":
"Chiều phai mây trắng trôi
Trôi qua dòng đời muộn phiền
Chiều nay tôi thấy em gọi nắng lên
Chiều thu tôi em tôi em như một tình cờ vừa đến
Bàn chân em e thẹn, bàn tay em thơ dại
Vội vàng con chim bé vỗ cánh bay lên cao
Đời cho tôi có em trong một chiều không mong đợi
Đời cho tôi có em trong thu về hương tình tới
Bàn tay thôi e thẹn, bàn chân thôi thơ dại
Chiều nay con chim én líu lo thương đời”
image
Mùa thu 75 đã làm bao nhiêu con tim điêu đứng, Ngô Thụy Miên khi ra xứ ngồi đã chia sẽ tâm tư của ông qua bài "Thu Sàigòn" như sau:
"Em hỏi anh mùa thu Saigòn
Nắng còn vương vương trên hàng phố vắng
Em hỏi anh mùa thu Saigòn
Nước mắt bây giờ có như mưa tuôn..."
Thu SÀI GÒN
http://www.youtube.com/watch?v=VdpyNzReq1s
Từ miền trung nam nước Mỹ, nhac sĩ Đỗ Duy Thụy đã bộc lộ tâm sự của ông khi mùa thu về ta.i Houston với những nhung nhớ mùa chia ly của tình yêu trong bài "Thu vàng nổi nhớ":
"Theo bước chân em đi thu vàng
Tình ơi sao đến muộn màng
Nổi nhớ mang theo cung đàn
Buồn vương trên bao tháng năm
Đời một rừng thu hoang vắng
Mơ em là nắng xuân sang
Hồn anh mộng cũ chưa tan
Tình theo lá thu vàng"
Trong nỗi khắc khoải khôn nguôi, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã tưởng nhớ dến mùa thu năm cũ khi nhìn về người tình
Cũng vì mùa thu năm cũ vơi đầy nhung nhớ, Ngô Thụy Miên âu yếm nhìn vào ánh mắt người tình với bài "Thu trong mắt em":
"Rồi một mùa thu tới cho mắt em buồn trong nắng
Mầu tình hôn tóc rối ru má em hồng say đắm ...
Ô hay mùa Thu lại về cho mình giăng hẹn hò
Gọi tên nhau khi chiều đến
Mây Thu vấn vương đan ngập lối đi
Ái ân theo hồn vút cao Vết mơ tình xõa tay mềm..."
Thu Trong Mắt Em (Phạm Anh Dũng) Quỳnh Lan hát (Vinh Nguyễn"
http://www.youtube.com/watch?v=mHYa9Z0pOuc
image
Nếu mùa thu được dùng như biểu tượng của sự ra đi hay sự chia ly để rồi dứt khoát một cuộc tình buồn não nề nào đó. Trong bối cảnh buồn của mùa thu ở vườn Luxemburg với ngập xác lá vàng rơi. Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đã viết bài "Mùa thu không trở lại" để nói lên nỗi sầu tan tác của ông:
"Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại
Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng âm u
Em ra đi mùa thu, mùa thu không còn nữa
Đếm lá mùa thu, đo sầu ngập tim tôi…"
Mua Thu Khong Tro Lai - Si Phu
http://www.youtube.com/watch?v=qjPBKvQm6X4&feature=related
image
Cũng như sự chia ly từ mùa thu dang dỡ, người yêu sẽ tìm quên lãng mùa thu sầu úa vì tình đã chết trong lòng khi niềm cô đôn chợt đến mà nhạc sĩ Nam Lộc ghi nhận qua bài "Anh đã quên mùa thu":
"Bây giờ là mùa thu
Chiều vắng khói sương mù
Hàng cây khô sầu úa
Hiu hắt đứng trong mưa
Mưa như lệ tình xưa
Lệ thấm mãi cho vừa
Lệ thương hoa phượng rũ
Em có nghe mùa thu ...
Anh Đã Quên Mùa Thu - Nam Lộc, Tùng Giang-Tiếng hát:Dalena
http://www.youtube.com/watch?v=L8byBhMz54g
image
Mùa thu về với khung trời Paris của Cung Trầm Tưởng, nhà thơ này đã kể về chuyện tình mùa thu với nàng kiều nữ tóc nâu người địa phương bên vườn Luxemburg. Bài thơ "Mùa thu Paris" đuoc nhạc sĩ Pha.m Duy phổ thành một nhạc phẩm đã đi vào dĩ vàng của Saigon một thời xa xưa:
"Mùa thu Paris, trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ, hẹn em quán nhỏ
Rượu rưng rưng ly đỏ tràn trề ...
Mùa thu âm thầm bên vườn Lục Xâm
Ngồi quen ghế đá, ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm
Mùa thu nơi đâu, người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ, tóc vàng sợi nhỏ
Chờ mong em chín đỏ trái sầu.."
MÙA THU PARIS
http://www.youtube.com/watch?v=z4R3fNOvzew
image
Từ một phương trời nào đó Phạm Anh Dũng âu yếm thì thầm với người em gái mắt nâu của mình bằng những lời yêu dấu để thăm chừng khi nào mùa thu của tình yêu thực sự đến. Nếu Phạm Trọng Cầu hay Trịnh Công Sơn nhìn mùa thu đi với nỗi niềm tiêu cực thì tương phản thì Phạm Anh Dũng lại nhìn mùa thu ở khía cạnh tích cực. Nào chúnh ta hãy nghe lời hát của Pha.m Anh Dũng qua bài "Mùa thu về chưa em nhỉ":
"Này yêu dấu, mùa thu về chưa nhỉ
Gọi mây trôi em thả tóc bay đi
Hạt long lanh rơi nhạt lá thay mầu
Tình xanh biếc, xanh mầu đôi mắt nâu ...
Này yêu dấu, mùa thu về lá đổ
Dòng sông xanh trôi về mãi xa xôi Chiec
La Thu Phai - Trinh Cong Son
http://www.youtube.com/watch?v=9UTkySHIjP8
Thu ca http://www.youtube.com/watch?v=9ishFIpSe-w
Mua Thu La Bay http://www.youtube.com/watch?v=cZPPieYZlzY
GIOT MUA THU- Dan Bau http://www.youtube.com/watch?v=37qw5vNyYzE
Mua thu cho em Ngo Thuy Mien http://www.youtube.com/watch?v=UVCQoGZw91k&feature=related
Phan Anh Dũng
mardi 28 août 2012
Người Đi Dựng Cờ Vàng
Đây không phải là «tình ca của người mất trí», mà chính là nỗi đau được nung nấu bằng hình ảnh đau thương trước cảnh máu người Việt Nam chảy khắp Hoàng-Trường Sa, thân thể Mẹ Việt Nam đang bị cắt từng đoạn, kẻ kêu gào..người than oán trên khắp nẻo đường, biết bao cay đắng, biết bao tủi nhục, nhắm mắt lìa đời tay vẫn với tìm những hàng chữ « ĐÔC LÂP-TỰ DO-HẠNH PHÚC» trong vô vọng. Những bất công ấy, những tủi nhục ấy đã nung nấu làm sống lại tinh thần dân tộc,với niềm tự hào của một Việt Nam Minh Châu Trời Đông, ngụy quyền cộng sản có thể dùng thủ đoạn tiêu diệt dân khí ở một thời gian ngắn, nhưng không thể đốt cháy bầu nhiệt huyết tuổi trẻ đã được hun đúc bằng máu và nước mắt của bao anh linh trải dài trên khắp ba miền đất nước. Hồn Hát Giang còn đó, sóng Bạch Đằng vẫn vang vọng những chiến tích anh dũng lẫy lừng kết thúc một ngàn năm nô lệ giặc phương Bắc, nào Hà Hồi…nào Vạn Kiếp…nào Đống Đa….nào Yên Báy… đã tích tụ nên một Hồn Người Việt máu đỏ da vàng với niềm tự hào bất diệt.



Các bạn hãy sống và làm những gì đúng nhất theo con tim và lý trí của các bạn dẫn dắt, không ai có quyền đòi hỏi các bạn phải đổ máu để làm anh hùng, vì khi nói đến anh hùng là nói đến sự anh minh sáng suốt, nói đến cái dũng của kẻ sĩ, những cái chết vinh quang là cái chết «Sĩ khả sát, bất khả nhục» từ ngàn xưa chẳng có cái chết «ngu muội» nào mà được tuyên xưng là anh hùng. M ột khi bước vào con đường cách mạng, chắc hẳn các bạn cũng đã chuẩn bị cho mình một cái chết «xứng đáng», chết như anh hùng Nguy ễn Thái Học…
dimanche 19 août 2012
Đại nhạc hội CÁM ƠN ANH Người Thương Binh VNCH-kỳ 6

samedi 4 août 2012
dimanche 29 avril 2012
ANH SẼ NGỦ YÊN TRÊN QUÊ HƯƠNG
mardi 3 avril 2012
Hải Ngoại Thương Ca


Chủ nghĩa tham vọng….chẳng biết có loại chủ nghĩa này hay không, nhưng nó hình như chưa từng hiện hữu trong đời sống tôi, có chăng chỉ là niềm đam mê và sống hết mình trong nghệ thuật âm nhạc, một bức tranh đẹp có giá trị phải được phù thủy hóa bằng trái tim qua nét vẽ của người họa sĩ.Tôi không muốn phác họa « thần tượng » của mình trên đôi tay vụng về, bởi giá trị của ông đã được quá nhiều văn nhân thi sĩ nhắc đến bằng tất cả ngôn từ đẹp nhất trong sự ái mộ và trân trọng, tôi không muốn mình trở thành thừa thãi khi viết về ông. Dù không là sa mạc cũng xin làm hạt cát được quyện tròn trong cơn lốc yêu thương, tôi tìm về ông như một nơi trú ẩn cho tâm hồn, xoa dịu trong tôi những vết xước của gai đời, ở nơi đó tôi tìm lại cho mình sự thăng bằng để tiếp tục bước đi trên đoạn đường còn rất dài nhưng chưa tận.
Viết về người nhạc sĩ khả kính Nguyễn Văn Đông, quả thật tôi không đủ khả năng để nói được hết những tinh hoa trong nghệ thuật âm nhạc mà ông đã mang đến cho đời, tất cả những gì hay và đẹp nhất đã được nhà thơ Du Tử Lê viết lại một cách rất trân trọng và chi tiết, bao gồm :Tiểu sử, thân phận, cũng như những nhận định về hình ảnh người lính trong nhạc Nguyễn Văn Đông. Xin được khép lại những tinh hoa của một nhà thơ nói về người nhạc sĩ khả kính, bởi chính ông đã « hữu xạ tự nhiên hương », sự chuyển tải đôi khi vụng về của tôi sẽ trở nên thừa nếu không muốn nói là….dở. Trong bài viết này, tôi chỉ muốn hoài niệm lại một quãng đời tôi đã đi qua, trong đó có hình ảnh của người Bố đã một thời khoác áo chinh y, ngoài những ca khúc tiền chiến bất hủ, Bố là người đã đưa tôi đến gần với nhạc Nguyễn Văn Đông, để từ đó âm nhạc Nguyễn Văn Đông đã sống cùng tôi trong suốt cuộc chiến dài và cho đến mãi tận hôm nay.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Ông sinh ra vừa kịp lớn để bước theo tiếng gọi núi sông, tôi sinh ra để kịp nghe tiếng tầm bay của đạn pháo.Hai mảnh đời nhưng cùng một thân phận, thân phận của những con người sinh trong thời ly loạn, để cùng gặm nhấm chung những nỗi đau mất mát của chiến tranh, ông bước vào đời bằng lý tưởng của người trai vì sông núi, tôi bước vào đời bằng giấc mơ đoàn viên bên cạnh bếp lửa hồng.Và chính nơi này tôi đã gặp ông trong cái duyên âm nhạc….
Mỗi lần được tin Bố sắp về phép, lòng tôi nôn nao thấp thỏm đứng ngồi không yên, trường học tôi nằm ngay trên con đường đi ra cổng làng, rất thuận tiện cho việc đi đón Bố sau khi tan học, ngày ấy còn bé quá , tôi không có khái niệm về thời gian, nhiều hôm về đến nhà bị ăn đòn vì cái tội học xong không về thẳng nhà mà còn đi lêu lỏng, những lần như thế bịnh lì bẩm sinh lại tái phát, mình tôi lầm lũi đi ra chiếc cầu nằm cạnh nhà bắc ra sông, ngồi thả chân đánh đu cùng sóng nước, mắt nhìn về một cõi xa xăm tìm Bố để than van kể lể về nỗi lòng « Oan Thị Kính », biển là người bạn duy nhất đã cất giữ dùm tôi những giọt nước mắt của nhớ thương, hình ảnh Bố với gương mặt thoáng buồn cùng đôi mắt trĩu nặng trong bộ quân phục bên cạnh cây súng và chiếc nón sắt đang nhìn tôi như muốn nói điều gì…
- Bố ơi, con nhớ Bố lắm..
Tôi quay về mang theo chút tia hy vọng, mong ngày mau qua cho đêm xuống, để khi thức giấc tôi lại có thêm một ngày chờ đợi và đón Bố khi bóng người còn đang ở rất xa…
- Sao con không ở nhà, ra ngoài trời nắng chang chang thế này
Và câu nói muôn đời bất di bất dịch của tôi
- Sao Bố đi lâu thế
Những ngày phép qua đi thật ngắn ngủi, nhìn cách chuẩn bị của Mẹ cho tôi biết …ngày mai này Bố lại ra đi….. Tôi lầm lũi trở nên ít nói, với lên vách tường lấy xuống cây đàn Mandolin trao vào tay Bố…
- Bố đàn và hát cho con nghe nhé
Cầm cây đàn trên tay sửa lại cho đúng nốt, giọng Bố trầm buồn….

Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
Sao còn đứng ngóng nơi Giang đầu
Kìa rừng chiều âm u rét mướt
Chờ người về vui trong giá buốt
Người về bơ vơ …..
Người đi khu chiến thương người hậu phương
Thương màu áo gửi ra sa trường
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
Thì đường trần mưa bay gió cuốn
Còn nhiều anh ơi !
Tiếng đàn khi trầm lúc bổng réo rắt như những nhịp bước quân hành.Hình ảnh những người lính hiên ngang nối đuôi nhau đi trong mưa bão lúc ẩn lúc hiện, trước mặt là núi rừng trùng trùng điệp điệp, văng vẳng bên tai tôi, tiếng quân hành lướt đi ngoài sương gió, tôi nhìn theo bóng dáng người lính cuối cùng đã khuất dần dưới cơn mưa bão, lòng chợt bồi hồi « Chiều mưa biên giới anh đi về đâu »…..Bản nhạc đã dứt, tâm hồn tôi còn mãi tận nơi đâu…..Giọng Bố đánh thức tôi trở về với thực tại và chỉ còn kịp nghe ….
- Chiều Mưa Biên Giới của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đó con gái.
Kể từ đó… « Em chưa biết yêu đã biết sầu »… Âm nhạc Nguyễn Văn Đông đã đi bên cạnh tôi như một người tình trong suốt cuộc chiến, xoa dịu trong tôi những nhớ thương về người Bố ngoài chiến trường, đang ngày đêm miệt mài ôm tay súng gìn giữ sơn hà cho tôi có được những giấc ngủ bình an.
Những cánh phượng rời xa cuống đi tìm giấc ngủ vùi trong cơn mưa thu, một vài tiếng ve sầu đang cố cất lên những cung bậc thê thiết sau cùng để lìa xa nhân thế, xa xa vọng về những âm thanh của sự chết, máu quyện cùng đất chan hòa cùng nước mắt của người thiếu phụ, người lính vẫn miệt mài tay súng, vẫn tình thu thắm thiết, và vẫn nhớ muôn vàn đến một « Sắc Hoa Màu Nhớ »

Hoa phượng rơi đón mùa thu tới
Màu lưu luyến nhớ quá thu ơi
Ngàn phượng rơi bay vương tóc tôi
Sắc tươi màu phố vui
Tiễn em chiều năm ấy….
Đời tôi quân nhân, chút tình duyên gửi núi sông
Yêu mầu gợi niềm thủy chung
Nhưng rồi vẫn nhớ,một trời vẫn nhớ đời đời
Phượng rơi rơi trong lòng tôi….
Người lính vẫn hiên ngang bước đi trong oan nghiệt của đất trời, mưa…mưa da diết, mưa như vuốt mặt, mưa như cài thêm nỗi nhớ để bước chân anh không biết mỏi, dù gian khổ, dù hiểm nguy , hay dù tóc anh có tơi bời lộng gió bốn phương, nhưng chân anh chưa mỏi, chí anh chưa sờn… chuyện mưa nắng bụi đường có xá gì với đời trai đã nguyện hiến dâng mình cho đất nước. Người lính Nguyễn Văn Đông cũng như bao chàng trai cùng trang lứa, đã bước theo tiếng gọi của tiền nhân băng mình trong lửa đạn, đêm nằm gối súng trông ánh sao trời nghe tim mình thèm khát một chút tình đơn sơ, ươm những giấc mơ cho ngập tràn nỗi nhớ, để khi tìm về bên người yêu, dư vị thuốc súng vẫn phảng phất vương trên màu áo trận, xóa tan đi những giọt tủi hờn. Hạnh phúc lại một lần nữa được khai sinh trên nỗi nhớ, dù có mong manh tựa sợi tơ trời, thì hạnh phúc ấy cũng đủ gía trị để ta nâng niu trọn một kiếp người.
Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng
Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê
Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông
Kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa…
Anh như ngàn gió, ham ngược xui, theo đường mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương
Nước non còn đó một tấc lòng
Không mờ xóa cùng năm tháng
Mấy ai ra đi hẹn…về dệt nốt tơ duyên…
Dù chưa một lần được làm người yêu của lính trong thời chiến, nhưng trong tôi đã có đủ những cảm nhận phút giây giã biệt, nỗi quyến luyến trước phút chia tay khi Bố trở lại chiến trường vẫn in hằn trong trái tim, những giọt nước mắt trong cái ôm siết chặt rớt trên vai Bố đã nuôi tôi khôn lớn từng ngày, để từ đó tôi biết yêu và quý trọng hơn những gì đang hiện hữu. Lời giã biệt…như nói lên một sự hứa hẹn nhưng không phải là tuyệt vọng, dù có làm tan nát lòng kẻ ở người đi, thì đó cũng chính là chất xúc tác để ta không phải hoài một đời, sống trọn vẹn một lần trong “ thú đau thương ”.
Thôi nhé về đi em buồn chi
Lưu luyến càng thêm đau người đi
Một trời binh lửa nhuốm tang thương
Người đi chốn sa trường
Hàn gắn tình mến thương…
Nơi ấy dù bôn ba đời lính
Anh vẫn còn yêu thuở học sinh
Trời chiều biên giới hết mưa bay
Người đi chóng quay về
Em gắng chờ đợi nhau.
Từng đàn bướm đang lượn quanh muôn hoa, đám cỏ non đang nô đùa trước gió, từng cụm mây trắng như bóng giai nhân nằm khoe mình dưới bầu trời xanh vắt. Xuân đã về…
Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày tết rủ nhau mà về
Chiến tranh dù có tàn ác cách mấy, cũng chẳng ai nỡ gieo tang tóc trong những ngày xuân, thế nhưng… mùa xuân năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám. (1968) Mùa xuân của điêu linh,của tang tóc, của máu và nưóc mắt trộn lẫn xác người cùng xác pháo đẫm ướt trên khắp quê hương miền Nam. Người người khóc, nhà nhà khóc, tiếng pháo giao thừa đã phải chào thua những tiếng nấc uất nghẹn, những ánh mắt hờn căm,những kêu gào tuyệt vọng. Làm sao nói cho hết sự tàn bạo của cái chủ thuyết vô thần, luân lý và đạo đức không giá trị bằng những ly rượu máu chảy từ người dân được nâng lên chúc mừng cho loại chiến thắng lừa bịp, hung tàn. Thương cho thân phận những người lính miền Nam phải đón giao thừa trong một phiên gác xuân, nghe tiếng súng mà ngỡ rằng tiếng pháo, ngồi trong chòi mà ngỡ mái nhà tranh, hình ảnh đó đã đủ nói lên hết cái tinh thần trách nhiệm của người trai thời loạn. Một lần nữa xin được tri ân các Anh, những người còn sống hôm nay và những người đã ngủ sâu trong lòng đất Mẹ.
Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi…
Chốn biên thùy này xuân tới chi
Tình lính chiến khác chi bao người
Nếu xuân về tang thương khắp lối
Thương này khó cho vơi,thì đừng đến xuân ơi.
Nếu như định mệnh có dành sẵn cho người lính một kết thúc oan nghiệt, thì con dân miền Nam cũng phải gánh chịu những đọa đày sau ngày tàn của cuộc chiến. Tất cả những gì người lính làm đã vượt lên số phận, họ không là một tín đồ ngoan của thuyết “định mệnh”, nhưng than ôi, số phận như một tiền định mà con người không thể chống lại. Đã bao lần tôi khóc cho Anh và khóc cho dân tộc này. Ngày Anh bước vào trò chơi mãn tính của loài thú, là ngày con dân miền Nam sống nô lệ khổ sai trên chính quê hương mình, bóng tối và sự chết luôn rình rập đe dọa trên nỗi sợ của con người, làm sao không biết sợ khi đứng trước loài cầm thú chỉ biết phục tùng cho bản năng. Và tôi rời quê hương mang theo bên mình nỗi buồn viễn xứ, Anh ở lại gậm nhấm nỗi nhục của người ngã ngựa.
Trong những năm đầu sống vật vờ làm trăng viễn khách, hồn tôi xuôi ngược chẳng biết về đâu…Những chiều mưa biên giới, những sắc hoa màu nhớ, những phiên gác đêm xuân… Tất cả đã mờ dần, trong tôi giờ chỉ có sàigon ơi vĩnh biệt, người di tản buồn, ai trở về xứ Việt, hay một chút quà cho quê hương... Tôi đã quên ông, quên người nhạc sĩ đã nuôi lớn trái tim tôi, con dân miền Nam cũng thôi nhớ về ông, những khuôn mẫu suy tư độc đoán đã dìm chết cả một dân tộc đắm chìm trong “chủ nghĩa tuân thủ” những tiếng hát vô hồn như những thây ma cùng bước lên “chủ nghĩa đại đồng”, và tất cả cùng ngã gục xuống tận đáy điêu linh của “ thời bao cấp”.
Mười năm của tủi nhục đã bào mòn thân xác, ông trở về mang theo một túi hành trang trống rỗng, chứa đựng sự rách nát toàn diện của tâm hồn. “Ông bước đi …không thấy phố…không thấy nhà…chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ ”. Đây…đây mới đích thực là nỗi đau tận cùng của những giọt lệ khô đã làm trơ đi hốc mắt. Xa lạ lắm phải không ông? Nếu không còn nước mắt để khóc thì cười đi ông nhé, cười cho thật man dại, để khi tiếng cười ngưng bặt, trong sự tĩnh lặng ông sẽ nghe rõ hơn tiếng thét gào từ đáy vực tâm hồn. Là một người mang ơn ông , hãy để tôi khóc thay ông, khóc cho cái gía mà ông đã trả cho tình yêu đất nước và niềm đam mê sáng tác, để tôi có được thừa hưởng chân giá trị mà ông đã để lại cho đời.Lần trở về tìm lại cảnh cũ người xưa, trong nỗi xót xa bồi hồi xúc cảm, ông chỉ kịp nhìn những điêu tàn đổ nát, nhưng không kịp đuổi bắt quá khứ chưa một lần vấy đục sông mê…
Về đây ngơ ngác, chim bay tìm đàn
Về đây hoang vắng, lạnh buốt cung đàn
Tôi lắng nghe tâm tình nhân thế
Qua đáy tim chưa đục sông mê
Qua ước mơ duyên tình đơn sơ…..
Nơi xưa quê nghèo, nhà tranh nát tiêu điều
Tình xưa khôn hàn gắn
Người đã đi rồi, người về đâu có hay
Đâu vòng tay đắm say …..
Nói đến âm nhạc Nguyễn Văn Đông, nếu như không nhắc đến “ Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp” thì quả là một thiếu sót rất lớn. Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp như một tiêu biểu cho sự chọn lựa lý tưởng của người trai thời loạn, bao gồm cả ý thức hệ. Sự dung hòa giữa tình nhà nợ nước, đã không làm mất đi cái giá trị nhân bản của một con người bình thường trong “ hàng hàng lớp lớp” của ông. Có lẽ đó cũng là một nét riêng, một đặc điểm để trở thành một biểu tượng trong lòng những người lính khi đến với âm nhạc Nguyễn Văn Đông.
Còn đây giây phút này
Còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi
Còn trong ánh mắt, còn cầm tay nhau
Ngày mai xa cách nhau
Một người gối chiếc cô phòng
Còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió
Hỡi người anh thương, chứa trọn thề ước
Nhưng tình đất nước ôi lớn lao
Không đành lòng dệt mối thắm riêng tư
Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý
Đêm nằm gối súng trông ánh trăng
Cho người này gợi nhớ thương người kia …..
Và xin em hiểu rằng
Người đi giúp nước nào màng danh chi
Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi.
Thời gian tựa bóng câu qua mành, mới đó mà đã hơn ba mươi sáu năm, kể từ ngày quê hương đắm chìm trong biển lửa. Theo làn sóng tị nạn cộng sản, tôi cũng như những người con dân Việt, đành đứt ruột lià xa những người thân yêu, lìa xa Tổ Quốc sống những tháng ngày lưu vong nơi đất lạ quê người, hình ảnh hoảng loạn không định hướng của những ngày đầu, lại một lần nữa trở về hiện diện trong ký ức tôi…! Mọi người đang đón mừng giáng sinh trong an bình hạnh phúc, con dân Việt chúng tôi đón mừng giáng sinh trong nước mắt tủi nhục của một thân phận lưu đày, tất cả cùng khóc, ôm nhau khóc, tức tửi khóc, khóc cho Tổ Quốc, cho Cha Mẹ, cho anh chị em , cho vợ, cho chồng, cho các con, và sau cùng là giọt nước mắt dành cho chính mình. Trải qua biết bao thăng trầm, con dân Việt lưu lạc mới có được sự bình ổn trong đời sống, cuộc chạy đua để được sớm hội nhập với một nền văn hóa mới, tôi đã bị thua cuộc so với những bạn bè cùng trang lứa, trong lúc nhiều bạn bè chạy theo nền âm nhạc đang rất thịnh hành của thập niên tám mươi, thì tôi cặm cụi như một bà già tìm kiếm lại những âm thanh ngày cũ, khóa chặt hồn mình trong một ốc đảo cùng với những tình khúc của một thời binh lửa, gặm nhấm những cảm xúc đau thương nghe trái tim dằn vặt để cùng đau với sự nổi trôi của vận nước. Mang ơn ông đã thắm nhuần trong tôi những ca từ của chiều mưa biên giới, của khúc tình ca hàng hàng lớp lớp, để tôi không phải đi khập khễnh trên chính đôi chân mình, và nhờ thế tôi nhận thêm ra những chân giá trị của ông. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là một người có óc sáng tạo trong cải cách âm nhạc, dựa trên căn bản cái mình đã có làm nền tảng cho sự cái cách, chẳng bởi vì “ Tân” mà phải mất đi cái “ Cổ ”. Vì thế, trên nền trời âm nhạc của Việt Nam đã xuất hiện thêm một thể nhạc mới được gọi là “ Tân Cổ Giao Duyên”, xuất thân từ miền bắc, nhưng tôi cũng rất mê cái thể loại nửa Tân nửa Cổ này. Theo nhà thơ Du Tử Lê, bài “ Tân cổ giao duyên” đầu tiên được sáng tác vào năm 1963, đó là bài “ Khi Đã Yêu”, và phải đợi tới sáng tác thứ hai “ Mùa Sao Sáng” thì phong trào “ Tân cổ giao duyên” mới thực sự rộ lên. Viết đến đây làm tôi lại nhớ đến Bố, điều làm tôi rất ngạc nhiên, Bố bị ảnh hưởng vào nền âm nhạc thời “ Tiền Chiến” rất sâu đậm, thế mà ông cũng rất mê thể loại “ Tân Cổ Giao Duyên” này mới chết tôi, cái chết ở đây là vì …Bố bắt tôi hát tân cổ cho Bố nghe, dù đang còn trong tuổi thắt bím nhai ô mai, vậy mà tư duy tôi đã hình thành cái mặc cảm rất dễ thương “ Bắc kỳ hát tân cổ sẽ lòi cọng rau muống”. Nhờ Bố mà tôi cảm nhận được cái đẹp cái hay qua sự sáng tạo của người nhạc sĩ, tôi ví “ Tân Cổ Giao Duyên” như sự kết hợp của nghĩa vợ chồng, như hình với bóng không thể tách rời.
Khi đã yêu thì mơ mộng nhiều
Mơ ngày mai pháo nhuộm đường vui
Mơ vành môi thơm ngát hương đời
Tình kia phong kín mây trời
Nhưng yêu riêng một người thôi….
Chớ nói tình yêu
Bằng chót lưỡi đầu môi
Bằng khóe mắt xa vời
Thì dẫu sau này nên câu luyến ái
Ân tình còn vương mãi mãi
Muôn đời trọn kiếp không phai….
Ngoài ra, với tôi âm nhạc và con người Nguyễn Văn Đông là cả một triết lý sống, ông là người biết giữ gìn cái giá trị của mình, không để biến chứng theo thời cuộc, biết tìm cho mình một hạnh phúc trong chữ “ Nhẫn ”, sự sắt son và tấm lòng thủy chung của ông đã phá tan mọi đam mê của quyền lực, của danh vọng. Hãy thử một lần kềm hãm sự thèm khát của bản năng, để thấy rõ hơn cái chân giá trị của lý trí. Là một người sống có lý tưởng, ông đã trọn lòng phục vụ cho đất nước, trọn lòng phục vụ đời sống tâm linh cho xã hội, đem niềm vui cho người làm hạnh phúc mình,vì thế tôi không ngạc nhiên khi nghe ông thở dài về ba mươi mấy năm hoang phế. Tôi nhìn ông ở khía cạnh đời sống tâm linh nhiều hơn những biệt tài mà ông đã mang đến cho đời.
Chiến tranh chấm dứt là điều mong muốn của tất cả con dân Việt, nhưng định mệnh đã an bài cho đất nước phải kết thúc trong sự đau đớn ê chề, đường ranh giới đã được lấp, nhưng lòng người vẫn vạn nẻo ly tan. “Hải Ngoại Thương Ca” như một sắp xếp của định mệnh, “sáng tác năm 1964” để sau bốn mươi bảy năm, “Đàn Chim Việt” vẫn ngậm ngùi trong cảnh ly hương, nhin về cố quận mà đau lòng con Cuốc Cuốc. “Tôi đi giữa trời bồi hồi, Cờ bay phấp phới quên chuyện ngày xưa” ... đó là tâm tình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông dành cho những người bạn đang sống ly tán trong cuộc binh biến đảo chánh năm 1960, như một lời kêu gọi hãy quên đi oán thù và trở về cùng xây dựng lại Quê Hương. Điều đó đã nói lên tính chất nhân bản của người nhạc sĩ đối với tình bạn và nghĩa đồng bào. Ngày nay, những cánh chim viễn xứ vẫn đi giữa trời bồi hồi, Cờ bay phấp phới “mong ngày đoàn viên”. Làm sao có thể xóa tan được oán thù, khi quê hương ngày một hấp hối trước họa diệt vong, những trái tim xanh đã không còn chỗ đứng trong một xã hội mang đầy kịch tính, nước nát, nhà tan, cái ác vẫn hiên ngang tồn tại, sự nhẫn nhục đã vượt trên sức chịu đựng của con người, thì lòng thù hận không phải là một sự lựa chọn của những người con xa xứ, mà đó là lập trường kiên định để nuôi chí đấu tranh, dành lại quyền sống, quyền làm người cho thế hệ mai sau. “Hải Ngoại Thương Ca” với tôi là một sự chờ đợi hát cho ngày quật khởi, ngày Cờ Vàng phấp phới bay trên khắp ba miền đất nước để nghe tiếng hát sum vầy của Hội Trùng Dương. Xin Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ cho con thuyền nước Nam được anh dũng oai hùng chen chân cùng thế giới…
Mặc thời gian tóc pha đôi màu
Mặc đại dương sóng to mưa gào
Đàn chim bé trong làn chớp xanh
Yêu trời tự do Á Đông
Thương về đồi núi xa xa.
Hạt sương Khuya - Paris 2012