dimanche 29 avril 2012

ANH SẼ NGỦ YÊN TRÊN QUÊ HƯƠNG

ANH SẼ NGỦ YÊN TRÊN QUÊ HƯƠNG 



Thời tiết mấy tuần qua thay đổi thất thường, bầu trời xám sậm như đang chất chứa nỗi niềm u uẩn của những bước chân hoang lạc vẫn còn đang rong ruổi trên con đường viễn xứ, nắm chặt đôi tay kéo lê bên mình nỗi hận Vong Quốc, dõi mắt trông về nơi cõi xa xăm kiếm tìm mảnh đất mang hình cong chữ S, đang bị những lưỡi dao thâm độc xẻ từng mảng làm của lễ dâng lên thiên triều để cùng nhảy múa chung vũ điệu «  sông liền sông núi liền núi » ,mặc cho những âm thanh đang thét gào, những đôi tay vẫy gọi cầu cứu, máu và nước mắt tràn ngập trong nỗi đau tuyệt vọng trước gọng kìm độc tài áp bức, và tôi …đã chết lặng do trăm ngàn mũi tên đang bắn thẳng vào tim.

Một mùa tháng tư đen lại đến… « tháng tư nấu cơm vo gạo bằng lệ » tháng tư ngồi đâu cũng nhớ, ngồi đâu cũng khóc, tháng tư hát hoài không hết nổi một bản nhạc ly hương. «  Sàigòn bây giờ trời mưa hay nắng, Sàigòn bây giờ ai khóc thương ai, Sàigòn giới nghiêm che khuất đêm dài, Sàigòn bóng nghiêng Sàigòn nắng đổ, Sàigòn bây giờ cuối mặt xa nhau »….

Ngoài trời mưa vẫn rơi, cơn mưa rỉ rả như lời cầu kinh của người Mẹ hiền, xin bình an cho những đứa con lưu lạc. Tôi chọn một ngày thật buồn ngồi lật lại từng trang sử bi hùng của những người Anh đã nằm xuống bên những nấm mồ hoang, không người hương khói, hồn vất vưởng lạc loài nơi cõi u minh, đợi chờ ngày 30-04 hằng năm cùng trỗi dậy, để mong tìm được lại mảnh đất của riêng mình, mảnh đất mà Mẹ Việt Nam coi như một niềm tự hào bởi có những người con đã nằm xuống vì hai chữ TỔ QUỐC thân yêu. Những chiến tích của một thời dấu binh lửa chợt hiện về trong lòng huyệt mộ, tất cả cùng bật dậy, đứng thẳng người đặt tay lên trái tim, và cùng cất cao tiếng hát…

Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên
Làm sao cho núi sông, từ nay luôn vững bền
Dù cho thây phơi trên gươm giáo
Thù nước lấy máu đào đem báo….

Giọt máu cuối cùng của người lính VNCH đã đổ xuống, nhưng đôi tay vẫn ôm chặt mảnh đất quê hương trong nỗi căm hờn, trong niềm tuyệt vọng, hơi đã tàn, sức đã kiệt… mắt vẫn mở trừng nhìn thẳng mặt quân thù, miệng cười ngạo nghễ cất cao tiếng hô vang « VIỆT NAM CỘNG HÒA MUÔN NĂM » và viên đạn cuối cùng đã được bắn ra trong niềm kiêu hãnh của kẻ… Sĩ khả sát bất khả nhục. Tên Anh đã đi vào lịch sử…

NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA

Mang thân lừa vác trên mình một gánh nặng giang san, đi xuyên suốt cuộc hành trình dài hai mươi năm của cuộc chiến, không oán than, không hờn trách, chỉ mong thỏa chí tang bồng cho xứng mộng làm trai thời loạn. Mồ hôi, máu và nước mắt cùng quyện lẫn với Hồn Thiêng Sông Núi, lấy TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM làm kim chỉ nam mang TỰ DO-HẠNH PHÚC cho đồng bào. Tất cả sự hy sinh của người lính đã vượt lên số phận, các Anh không là một tín đồ ngoan của thuyết định mệnh, thế nhưng số phận như một tiền định đã an bài mà sự nhỏ bé của con người vốn dĩ không thể chống lại. Và cái ngày nghiệt ngã đau thương ấy đã đến, máu của bao nhiêu triệu người đã đổ xuống cho hai chữ « thống nhất » trong mưu đồ nhuộm đỏ mảnh dư đồ của Cha Ông bao đời gầy dựng, một sự thống nhất mang mầm mống chia rẽ ngày một lớn hơn trong lòng dân tộc, hậu quả ngày một khốc liệt hơn, tàn bạo hơn trước những vô cảm dẫm đạp lên nhau để được sinh tồn, quyền lực là phương tiện hữu hiệu nhất của kẻ thắng trong mưu đồ tiêu diệt dân khí, những khuôn mẫu suy tư độc đoán ấy đã dìm chết cả một dân tộc đắm chìm trong «  chủ nghĩa tuân thủ » và hai chữ TỔ QUỐC đã không còn thiêng liêng dưới một nền giáo dục mang đầy kịch tính, bởi «  thượng bất chính-hạ tất loạn ».

NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA

Anh nằm xuống thật vinh quang, thật nhẹ nhàng… máu anh đã chan hòa trong lòng đất Mẹ quyện cùng máu của tiền nhân để làm sáng ngời thêm trang sử Việt, kẻ chiến thắng đã khiếp sợ trước cái chết vinh quang cao cả đó, sự trả thù là lẽ tất nhiên của kẻ đã mất đi cái chính nghĩa bởi tự xưng cho mình cái danh đi « giải phóng », và thân xác anh đã bị ném bên đường, hay bên sông, bên suối cho ruồi bu kiến đậu, để thỏa mãn cái thú tính của loài vật đội lốt người đang đắm chìm trong men chiến thắng. Nhưng Anh vẫn còn đó tình thương yêu và sự kính trọng của đồng bào, dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã cũng đã làm tròn cái trách nhiệm của tình quân dân cá nước… nghĩa tử là nghĩa tận… cũng còn đó những con người đã thấm nhuần câu ca dao «  Bầu Bí » của ông bà để lại, thân xác Anh được đắp vội bên đường, bên ruộng, bên mương, hay trong những cánh rừng sâu thẳm. May mắn lắm thì có những ngôi mộ được chăm sóc giữ gìn, kịp cải táng đưa về nơi yên nghỉ, dù không đúng nghĩa thiêng liêng của mảnh đất dành riêng cho Hồn Tử Sĩ, nhưng ít ra cũng được che nắng che mưa để không tủi thân anh linh của những người đã Vị Quốc Vong Thân. Hoàn cảnh nghiệt ngã trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, dù đã trọn nghĩa vẹn tình, nhưng thời gian đã thay đổi, những kiến trúc, những công trình mới khiến cho những ngôi mộ nay đã không còn dấu vết, do lấp vội, lấp nhanh để còn kịp chạy tránh xa loài quỷ đỏ như loại hung thần đang tràn vào thẳng tay chém giết. Các Anh có thật sự ngủ yên trong lòng đất Mẹ…. !

37 năm trôi qua, thân xác Anh đã rũa mục, có còn chăng là những lóng xương trơ trọi nằm trong lòng huyệt mộ, chỉ đất mới biết phân loài máu Anh, máu Việt Nam mang tình của Mẹ. Ngoài trời mưa vẫn rơi, gió vẫn thổi, có phải cơn gió vừa đi ngang đây là anh không ? Sao anh im lặng…sao anh suy tư….hay Anh đang nhớ bạn bè, nhớ chiến trường, nhớ đồng đội, chắc là Anh đang thèm hát bài Quốc Ca, thèm nghe tiếng hỏa châu rơi, thèm lắm một điếu thuốc hay một ngụm Cà Phê của quân tiếp vụ, tôi nhìn Anh cô đơn quá, gia tài của Anh chẳng còn gì ngoài tấm thẻ bài và chiếc nón sắc, nếu may mắn còn kịp mang theo bên mình. Tôi thương Anh lắm…. Anh biết không.

Chỉ còn vài tiếng nữa thôi, là đến ngày giỗ thứ 37 của Anh, tôi đang quỳ đây trước bàn thờ với tất cả Quân Trang Quân Dụng, hành trang cần thiết của một người lính mà tôi đã may mắn có được, và coi đó như những báu vật quý nhất trên đời Anh đã để lại, đến một lúc nào đó khi nhớ về Anh, tôi sẽ đem ra ngắm nhìn, khi cô đơn và thất vọng trước tình người, tôi sẽ tìm đến Anh, vì tôi biết Anh sẽ là người tình chung thành nhất, sẽ chẳng phản bội tôi như Anh đã từng thủy chung cố bám lấy mảnh đất Quê Hương bằng thân xác cạn kiệt và một trái tim mang đầy vết đạn.

Cơn gió nào vừa thoáng bên song
Hãy đón dùm tôi một bóng hình
Hồn ai lãng đãng trong mưa lạnh
Mong kịp về đây sưởi chút tình

Anh ! Người ta thường nói…mùa xuân là mùa thay đổi của vạn vật, sẽ đem đến niềm tin và sức sống cho con người, nhưng sao hồn tôi như trĩu nặng và trống vắng, có phải vì mùa xuân đã để lại những dấu ấn đau thương và tang tóc… khiến tôi, Anh và cả dân tộc này đã trở thành nạn nhân của một mùa xuân mang đầy xác khí, làm sao không rơi lệ khi con tim chất đầy tính nhân bản, trước cảnh giết thẳng tay, giết không ngơi nghỉ. Và Anh…người đội trên đầu hàng trăm ngàn tấn bom, cuối cùng phải kết liễu cuộc đời bằng chính viên đạn của mình. Cái chết của Anh đã khiến kẻ thù khiếp sợ, dù lăng nhục sỉ vả đến tận cùng, nhưng chúng cũng không thể phủ nhận cái khí phách của người lính Việt Nam Cộng Hòa, lịch sử ngày một chứng minh cái chính nghĩa không thuộc về kẻ chiến thắng, tên Anh ngày một sáng ngời trong lòng dân tộc, có chút tự hào và niềm kiêu hãnh nào đó đang tràn ngập trái tim tôi. Cảm ơn Anh, cảm ơn Mẹ Việt Nam đã sinh ra những người con bất tử để tôi có được niềm tự hào hôm nay.

37 mùa xuân trôi qua… những gian dối, những điêu ngoa ngày một phơi bày trước ánh sáng công lý, chủ nghĩa cộng sản đã bị thui chột trước đà tiến của nhân loại, đất nước đang đón chờ một mùa xuân thật sự an bình, không còn cảnh máu đổ lệ rơi, ngày mà chỉ có triệu người vui không có triệu người buồn. Ngày đó con dân Việt sẽ đón Anh mang về mảnh đất của riêng Anh, mảnh đất nhỏ hẹp ấy sẽ không còn ai chiếm đoạt, và đó cũng sẽ là ngày mà Anh thật sự ngủ yên trong lòng đất Mẹ.

Xin thắp nén hương lòng thành kính TRI ÂN NHỮNG ANH HÙNG VỊ QUỐC VONG THÂN trong mùa Quốc Hận 2012.

Hạt sương khuya

mardi 3 avril 2012

Hải Ngoại Thương Ca








Hải Ngoại Thương Ca

Viết và Diễn đọc: Hạt Sương Khuya
Thực hiện Âm thanh: Lam Sơn 719





Hải Ngoại Thương Ca

Chủ nghĩa tham vọng….chẳng biết loại chủ nghĩa này hay không, nhưng hình như chưa từng hiện hữu trong đời sống tôi, chăng chỉ niềm đam sống hết mình trong nghệ thuật âm nhạc, một bức tranh đẹp giá trị phải được phù thủy hóa bằng trái tim qua nét vẽ của người họa .Tôi không muốn phác họa « thần tượng » của mình trên đôi tay vụng về, bởi giá trị của ông đã được quá nhiều văn nhân thi nhắc đến bằng tất cả ngôn từ đẹp nhất trong sự ái mộ trân trọng, tôi không muốn mình trở thành thừa thãi khi viết về ông. không sa mạc cũng xin làm hạt cát được quyện tròn trong cơn lốc yêu thương, tôi tìm về ông như một nơi trú ẩn cho tâm hồn, xoa dịu trong tôi những vết xước của gai đời, nơi đó tôi tìm lại cho mình sự thăng bằng để tiếp tục bước đi trên đoạn đường còn rất dài nhưng chưa tận.


Viết về người nhạc khả kính Nguyễn Văn Đông, quả thật tôi không đủ khả năng để nói được hết những tinh hoa trong nghệ thuật âm nhạc ông đã mang đến cho đời, tất cả những hay đẹp nhất đã được nhà thơ Du Tử viết lại một cách rất trân trọng chi tiết, bao gồm :Tiểu sử, thân phận, cũng như những nhận định về hình ảnh người lính trong nhạc Nguyễn Văn Đông. Xin được khép lại những tinh hoa của một nhà thơ nói về người nhạc khả kính, bởi chính ông đã « hữu xạ tự nhiên hương », sự chuyển tải đôi khi vụng về của tôi sẽ trở nên thừa nếu không muốn nói ….dở. Trong bài viết này, tôi chỉ muốn hoài niệm lại một quãng đời tôi đã đi qua, trong đó hình ảnh của người Bố đã một thời khoác áo chinh y, ngoài những ca khúc tiền chiến bất hủ, Bố người đã đưa tôi đến gần với nhạc Nguyễn Văn Đông, để từ đó âm nhạc Nguyễn Văn Đông đã sống cùng tôi trong suốt cuộc chiến dài cho đến mãi tận hôm nay.


Nhạc Nguyễn Văn Đông. Ông sinh ra vừa kịp lớn để bước theo tiếng gọi núi sông, tôi sinh ra để kịp nghe tiếng tầm bay của đạn pháo.Hai mảnh đời nhưng cùng một thân phận, thân phận của những con người sinh trong thời ly loạn, để cùng gặm nhấm chung những nỗi đau mất mát của chiến tranh, ông bước vào đời bằng tưởng của người trai sông núi, tôi bước vào đời bằng giấc đoàn viên bên cạnh bếp lửa hồng. chính nơi này tôi đã gặp ông trong cái duyên âm nhạc….


Mỗi lần được tin Bố sắp về phép, lòng tôi nôn nao thấp thỏm đứng ngồi không yên, trường học tôi nằm ngay trên con đường đi ra cổng làng, rất thuận tiện cho việc đi đón Bố sau khi tan học, ngày ấy còn quá , tôi không khái niệm về thời gian, nhiều hôm về đến nhà bị ăn đòn cái tội học xong không về thẳng nhà còn đi lêu lỏng, những lần như thế bịnh bẩm sinh lại tái phát, mình tôi lầm lũi đi ra chiếc cầu nằm cạnh nhà bắc ra sông, ngồi thả chân đánh đu cùng sóng nước, mắt nhìn về một cõi xa xăm tìm Bố để than van kể lể về nỗi lòng « Oan Thị Kính », biển người bạn duy nhất đã cất giữ dùm tôi những giọt nước mắt của nhớ thương, hình ảnh Bố với gương mặt thoáng buồn cùng đôi mắt trĩu nặng trong bộ quân phục bên cạnh cây súng chiếc nón sắt đang nhìn tôi như muốn nói điều


- Bố ơi, con nhớ Bố lắm..


Tôi quay về mang theo chút tia hy vọng, mong ngày mau qua cho đêm xuống, để khi thức giấc tôi lại thêm một ngày chờ đợi đón Bố khi bóng người còn đang rất xa


- Sao con không nhà, ra ngoài trời nắng chang chang thế này


Và câu nói muôn đời bất di bất dịch của tôi


- Sao Bố đi lâu thế


Những ngày phép qua đi thật ngắn ngủi, nhìn cách chuẩn bị của Mẹ cho tôi biết ngày mai này Bố lại ra đi….. Tôi lầm lũi trở nên ít nói, với lên vách tường lấy xuống cây đàn Mandolin trao vào tay Bố


- Bố đàn hát cho con nghe nhé


Cầm cây đàn trên tay sửa lại cho đúng nốt, giọng Bố trầm buồn….



Chiều mưa biên giới anh đi về đâu

Sao còn đứng ngóng nơi Giang đầu

Kìa rừng chiều âm u rét mướt

Chờ người về vui trong giá buốt

Người về bơ vơ …..


Người đi khu chiến thương người hậu phương

Thương màu áo gửi ra sa trường

Lòng trần còn tơ vương khanh tướng

Thì đường trần mưa bay gió cuốn

Còn nhiều anh ơi !


Tiếng đàn khi trầm lúc bổng réo rắt như những nhịp bước quân hành.Hình ảnh những người lính hiên ngang nối đuôi nhau đi trong mưa bão lúc ẩn lúc hiện, trước mặt núi rừng trùng trùng điệp điệp, văng vẳng bên tai tôi, tiếng quân hành lướt đi ngoài sương gió, tôi nhìn theo bóng dáng người lính cuối cùng đã khuất dần dưới cơn mưa bão, lòng chợt bồi hồi « Chiều mưa biên giới anh đi về đâu »…..Bản nhạc đã dứt, tâm hồn tôi còn mãi tận nơi đâu…..Giọng Bố đánh thức tôi trở về với thực tại chỉ còn kịp nghe ….


- Chiều Mưa Biên Giới của Nhạc Nguyễn Văn Đông đó con gái.


Kể từ đó… « Em chưa biết yêu đã biết sầu »… Âm nhạc Nguyễn Văn Đông đã đi bên cạnh tôi như một người tình trong suốt cuộc chiến, xoa dịu trong tôi những nhớ thương về người Bố ngoài chiến trường, đang ngày đêm miệt mài ôm tay súng gìn giữ sơn cho tôi được những giấc ngủ bình an.


Những cánh phượng rời xa cuống đi tìm giấc ngủ vùi trong cơn mưa thu, một vài tiếng ve sầu đang cố cất lên những cung bậc thê thiết sau cùng để lìa xa nhân thế, xa xa vọng về những âm thanh của sự chết, máu quyện cùng đất chan hòa cùng nước mắt của người thiếu phụ, người lính vẫn miệt mài tay súng, vẫn tình thu thắm thiết, vẫn nhớ muôn vàn đến một « Sắc Hoa Màu Nhớ »



Hoa phượng rơi đón mùa thu tới

Màu lưu luyến nhớ quá thu ơi

Ngàn phượng rơi bay vương tóc tôi

Sắc tươi màu phố vui

Tiễn em chiều năm ấy….


Đời tôi quân nhân, chút tình duyên gửi núi sông

Yêu mầu gợi niềm thủy chung

Nhưng rồi vẫn nhớ,một trời vẫn nhớ đời đời

Phượng rơi rơi trong lòng tôi….


Người lính vẫn hiên ngang bước đi trong oan nghiệt của đất trời, mưamưa da diết, mưa như vuốt mặt, mưa như cài thêm nỗi nhớ để bước chân anh không biết mỏi, gian khổ, hiểm nguy , hay tóc anh tơi bời lộng gió bốn phương, nhưng chân anh chưa mỏi, chí anh chưa sờnchuyện mưa nắng bụi đường với đời trai đã nguyện hiến dâng mình cho đất nước. Người lính Nguyễn Văn Đông cũng như bao chàng trai cùng trang lứa, đã bước theo tiếng gọi của tiền nhân băng mình trong lửa đạn, đêm nằm gối súng trông ánh sao trời nghe tim mình thèm khát một chút tình đơn , ươm những giấc cho ngập tràn nỗi nhớ, để khi tìm về bên người yêu, vị thuốc súng vẫn phảng phất vương trên màu áo trận, xóa tan đi những giọt tủi hờn. Hạnh phúc lại một lần nữa được khai sinh trên nỗi nhớ, mong manh tựa sợi trời, thì hạnh phúc ấy cũng đủ gía trị để ta nâng niu trọn một kiếp người.


Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng

Ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê

Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông

Kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa…


Anh như ngàn gió, ham ngược xui, theo đường mây

Tóc tơi bời lộng gió bốn phương

Nước non còn đó một tấc lòng

Không mờ xóa cùng năm tháng

Mấy ai ra đi hẹn…về dệt nốt tơ duyên…


chưa một lần được làm người yêu của lính trong thời chiến, nhưng trong tôi đã đủ những cảm nhận phút giây giã biệt, nỗi quyến luyến trước phút chia tay khi Bố trở lại chiến trường vẫn in hằn trong trái tim, những giọt nước mắt trong cái ôm siết chặt rớt trên vai Bố đã nuôi tôi khôn lớn từng ngày, để từ đó tôi biết yêu quý trọng hơn những đang hiện hữu. Lời giã biệtnhư nói lên một sự hứa hẹn nhưng không phải tuyệt vọng, làm tan nát lòng kẻ người đi, thì đó cũng chính chất xúc tác để ta không phải hoài một đời, sống trọn vẹn một lần trongthú đau thương ”.


Thôi nhé về đi em buồn chi

Lưu luyến càng thêm đau người đi

Một trời binh lửa nhuốm tang thương

Người đi chốn sa trường

Hàn gắn tình mến thương


Nơi ấy dù bôn ba đời lính

Anh vẫn còn yêu thuở học sinh

Trời chiều biên giới hết mưa bay

Người đi chóng quay về

Em gắng chờ đợi nhau.


Từng đàn bướm đang lượn quanh muôn hoa, đám cỏ non đang đùa trước gió, từng cụm mây trắng như bóng giai nhân nằm khoe mình dưới bầu trời xanh vắt. Xuân đã về


Dù ai buôn bán nơi đâu

Nhớ đến ngày tết rủ nhau về


Chiến tranh tàn ác cách mấy, cũng chẳng ai nỡ gieo tang tóc trong những ngày xuân, thế nhưngmùa xuân năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám. (1968) Mùa xuân của điêu linh,của tang tóc, của máu nưóc mắt trộn lẫn xác người cùng xác pháo đẫm ướt trên khắp quê hương miền Nam. Người người khóc, nhà nhà khóc, tiếng pháo giao thừa đã phải chào thua những tiếng nấc uất nghẹn, những ánh mắt hờn căm,những kêu gào tuyệt vọng. Làm sao nói cho hết sự tàn bạo của cái chủ thuyết thần, luân đạo đức không giá trị bằng những ly rượu máu chảy từ người dân được nâng lên chúc mừng cho loại chiến thắng lừa bịp, hung tàn. Thương cho thân phận những người lính miền Nam phải đón giao thừa trong một phiên gác xuân, nghe tiếng súng ngỡ rằng tiếng pháo, ngồi trong chòi ngỡ mái nhà tranh, hình ảnh đó đã đủ nói lên hết cái tinh thần trách nhiệm của người trai thời loạn. Một lần nữa xin được tri ân các Anh, những người còn sống hôm nay những người đã ngủ sâu trong lòng đất Mẹ.


Đón giao thừa một phiên gác đêm

Chào xuân đến súng xa vang rền

Xác hoa tàn rơi trên báng súng

Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi…


Chốn biên thùy này xuân tới chi

Tình lính chiến khác chi bao người

Nếu xuân về tang thương khắp lối

Thương này khó cho vơi,thì đừng đến xuân ơi.


Nếu như định mệnh dành sẵn cho người lính một kết thúc oan nghiệt, thì con dân miền Nam cũng phải gánh chịu những đọa đày sau ngày tàn của cuộc chiến. Tất cả những người lính làm đã vượt lên số phận, họ không một tín đồ ngoan của thuyếtđịnh mệnh”, nhưng than ôi, số phận như một tiền định con người không thể chống lại. Đã bao lần tôi khóc cho Anh khóc cho dân tộc này. Ngày Anh bước vào trò chơi mãn tính của loài thú, ngày con dân miền Nam sống lệ khổ sai trên chính quê hương mình, bóng tối sự chết luôn rình rập đe dọa trên nỗi sợ của con người, làm sao không biết sợ khi đứng trước loài cầm thú chỉ biết phục tùng cho bản năng. tôi rời quê hương mang theo bên mình nỗi buồn viễn xứ, Anh lại gậm nhấm nỗi nhục của người ngã ngựa.


Trong những năm đầu sống vật vờ làm trăng viễn khách, hồn tôi xuôi ngược chẳng biết về đâuNhững chiều mưa biên giới, những sắc hoa màu nhớ, những phiên gác đêm xuânTất cả đã mờ dần, trong tôi giờ chỉ sàigon ơi vĩnh biệt, người di tản buồn, ai trở về xứ Việt, hay một chút quà cho quê hương... Tôi đã quên ông, quên người nhạc đã nuôi lớn trái tim tôi, con dân miền Nam cũng thôi nhớ về ông, những khuôn mẫu suy độc đoán đã dìm chết cả một dân tộc đắm chìm trongchủ nghĩa tuân thủnhững tiếng hát hồn như những thây ma cùng bước lênchủ nghĩa đại đồng”, tất cả cùng ngã gục xuống tận đáy điêu linh củathời bao cấp”.


Mười năm của tủi nhục đã bào mòn thân xác, ông trở về mang theo một túi hành trang trống rỗng, chứa đựng sự rách nát toàn diện của tâm hồn. “Ông bước đikhông thấy phốkhông thấy nhàchỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ ”. Đâyđây mới đích thực nỗi đau tận cùng của những giọt lệ khô đã làm trơ đi hốc mắt. Xa lạ lắm phải không ông? Nếu không còn nước mắt để khóc thì cười đi ông nhé, cười cho thật man dại, để khi tiếng cười ngưng bặt, trong sự tĩnh lặng ông sẽ nghe hơn tiếng thét gào từ đáy vực tâm hồn. một người mang ơn ông , hãy để tôi khóc thay ông, khóc cho cái gía ông đã trả cho tình yêu đất nước niềm đam sáng tác, để tôi được thừa hưởng chân giá trị ông đã để lại cho đời.Lần trở về tìm lại cảnh người xưa, trong nỗi xót xa bồi hồi xúc cảm, ông chỉ kịp nhìn những điêu tàn đổ nát, nhưng không kịp đuổi bắt quá khứ chưa một lần vấy đục sông


Về đây ngơ ngác, chim bay tìm đàn

Về đây hoang vắng, lạnh buốt cung đàn

Tôi lắng nghe tâm tình nhân thế

Qua đáy tim chưa đục sông mê

Qua ước mơ duyên tình đơn sơ…..


Nơi xưa quê nghèo, nhà tranh nát tiêu điều

Tình xưa khôn hàn gắn

Người đã đi rồi, người về đâu có hay

Đâu vòng tay đắm say …..


Nói đến âm nhạc Nguyễn Văn Đông, nếu như không nhắc đếnKhúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớpthì quả một thiếu sót rất lớn. Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp như một tiêu biểu cho sự chọn lựa tưởng của người trai thời loạn, bao gồm cả ý thức hệ. Sự dung hòa giữa tình nhà nợ nước, đã không làm mất đi cái giá trị nhân bản của một con người bình thường tronghàng hàng lớp lớpcủa ông. lẽ đó cũng một nét riêng, một đặc điểm để trở thành một biểu tượng trong lòng những người lính khi đến với âm nhạc Nguyễn Văn Đông.


Còn đây giây phút này

Còn nghe tiếng hát, nụ cười xinh tươi

Còn trong ánh mắt, còn cầm tay nhau

Ngày mai xa cách nhau

Một người gối chiếc cô phòng

Còn người góc núi ven rừng, chân mây đầu gió


Hỡi người anh thương, chứa trọn thề ước

Nhưng tình đất nước ôi lớn lao

Không đành lòng dệt mối thắm riêng tư

Phương trời anh đi, xa xôi vạn lý

Đêm nằm gối súng trông ánh trăng

Cho người này gợi nhớ thương người kia …..


Và xin em hiểu rằng

Người đi giúp nước nào màng danh chi

Cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy

Đời dâng cho núi sông

Lòng này thách với tang bồng

Đừng sầu má ấy phai hồng, buồn lắm em ơi.


Thời gian tựa bóng câu qua mành, mới đó đã hơn ba mươi sáu năm, kể từ ngày quê hương đắm chìm trong biển lửa. Theo làn sóng tị nạn cộng sản, tôi cũng như những người con dân Việt, đành đứt ruột lià xa những người thân yêu, lìa xa Tổ Quốc sống những tháng ngày lưu vong nơi đất lạ quê người, hình ảnh hoảng loạn không định hướng của những ngày đầu, lại một lần nữa trở về hiện diện trong ức tôi…! Mọi người đang đón mừng giáng sinh trong an bình hạnh phúc, con dân Việt chúng tôi đón mừng giáng sinh trong nước mắt tủi nhục của một thân phận lưu đày, tất cả cùng khóc, ôm nhau khóc, tức tửi khóc, khóc cho Tổ Quốc, cho Cha Mẹ, cho anh chị em , cho vợ, cho chồng, cho các con, sau cùng giọt nước mắt dành cho chính mình. Trải qua biết bao thăng trầm, con dân Việt lưu lạc mới được sự bình ổn trong đời sống, cuộc chạy đua để được sớm hội nhập với một nền văn hóa mới, tôi đã bị thua cuộc so với những bạn cùng trang lứa, trong lúc nhiều bạn chạy theo nền âm nhạc đang rất thịnh hành của thập niên tám mươi, thì tôi cặm cụi như một già tìm kiếm lại những âm thanh ngày , khóa chặt hồn mình trong một ốc đảo cùng với những tình khúc của một thời binh lửa, gặm nhấm những cảm xúc đau thương nghe trái tim dằn vặt để cùng đau với sự nổi trôi của vận nước. Mang ơn ông đã thắm nhuần trong tôi những ca từ của chiều mưa biên giới, của khúc tình ca hàng hàng lớp lớp, để tôi không phải đi khập khễnh trên chính đôi chân mình, nhờ thế tôi nhận thêm ra những chân giá trị của ông. Nhạc Nguyễn Văn Đông một người óc sáng tạo trong cải cách âm nhạc, dựa trên căn bản cái mình đã làm nền tảng cho sự cái cách, chẳng bởi Tân phải mất đi cáiCổ ”. thế, trên nền trời âm nhạc của Việt Nam đã xuất hiện thêm một thể nhạc mới được gọi Tân Cổ Giao Duyên”, xuất thân từ miền bắc, nhưng tôi cũng rất cái thể loại nửa Tân nửa Cổ này. Theo nhà thơ Du Tử , bàiTân cổ giao duyênđầu tiên được sáng tác vào năm 1963, đó bàiKhi Đã Yêu”, phải đợi tới sáng tác thứ haiMùa Sao Sángthì phong tràoTân cổ giao duyênmới thực sự rộ lên. Viết đến đây làm tôi lại nhớ đến Bố, điều làm tôi rất ngạc nhiên, Bố bị ảnh hưởng vào nền âm nhạc thờiTiền Chiếnrất sâu đậm, thế ông cũng rất thể loạiTân Cổ Giao Duyênnày mới chết tôi, cái chết đây Bố bắt tôi hát tân cổ cho Bố nghe, đang còn trong tuổi thắt bím nhai ô mai, vậy duy tôi đã hình thành cái mặc cảm rất dễ thươngBắc kỳ hát tân cổ sẽ lòi cọng rau muống”. Nhờ Bố tôi cảm nhận được cái đẹp cái hay qua sự sáng tạo của người nhạc , tôi Tân Cổ Giao Duyênnhư sự kết hợp của nghĩa vợ chồng, như hình với bóng không thể tách rời.


Khi đã yêu thì mơ mộng nhiều

Mơ ngày mai pháo nhuộm đường vui

Mơ vành môi thơm ngát hương đời

Tình kia phong kín mây trời

Nhưng yêu riêng một người thôi….


Chớ nói tình yêu

Bằng chót lưỡi đầu môi

Bằng khóe mắt xa vời

Thì dẫu sau này nên câu luyến ái

Ân tình còn vương mãi mãi

Muôn đời trọn kiếp không phai….




Ngoài ra, với tôi âm nhạc con người Nguyễn Văn Đông cả một triết sống, ông người biết giữ gìn cái giá trị của mình, không để biến chứng theo thời cuộc, biết tìm cho mình một hạnh phúc trong chữNhẫn ”, sự sắt son tấm lòng thủy chung của ông đã phá tan mọi đam của quyền lực, của danh vọng. Hãy thử một lần kềm hãm sự thèm khát của bản năng, để thấy hơn cái chân giá trị của trí. một người sống tưởng, ông đã trọn lòng phục vụ cho đất nước, trọn lòng phục vụ đời sống tâm linh cho hội, đem niềm vui cho người làm hạnh phúc mình, thế tôi không ngạc nhiên khi nghe ông thở dài về ba mươi mấy năm hoang phế. Tôi nhìn ông khía cạnh đời sống tâm linh nhiều hơn những biệt tài ông đã mang đến cho đời.


Chiến tranh chấm dứt điều mong muốn của tất cả con dân Việt, nhưng định mệnh đã an bài cho đất nước phải kết thúc trong sự đau đớn ê chề, đường ranh giới đã được lấp, nhưng lòng người vẫn vạn nẻo ly tan. “Hải Ngoại Thương Canhư một sắp xếp của định mệnh, “sáng tác năm 1964” để sau bốn mươi bảy năm, “Đàn Chim Việtvẫn ngậm ngùi trong cảnh ly hương, nhin về cố quận đau lòng con Cuốc Cuốc. “Tôi đi giữa trời bồi hồi, Cờ bay phấp phới quên chuyện ngày xưa” ... đó tâm tình của nhạc Nguyễn Văn Đông dành cho những người bạn đang sống ly tán trong cuộc binh biến đảo chánh năm 1960, như một lời kêu gọi hãy quên đi oán thù trở về cùng xây dựng lại Quê Hương. Điều đó đã nói lên tính chất nhân bản của người nhạc đối với tình bạn nghĩa đồng bào. Ngày nay, những cánh chim viễn xứ vẫn đi giữa trời bồi hồi, Cờ bay phấp phớimong ngày đoàn viên”. Làm sao thể xóa tan được oán thù, khi quê hương ngày một hấp hối trước họa diệt vong, những trái tim xanh đã không còn chỗ đứng trong một hội mang đầy kịch tính, nước nát, nhà tan, cái ác vẫn hiên ngang tồn tại, sự nhẫn nhục đã vượt trên sức chịu đựng của con người, thì lòng thù hận không phải một sự lựa chọn của những người con xa xứ, đó lập trường kiên định để nuôi chí đấu tranh, dành lại quyền sống, quyền làm người cho thế hệ mai sau. “Hải Ngoại Thương Cavới tôi một sự chờ đợi hát cho ngày quật khởi, ngày Cờ Vàng phấp phới bay trên khắp ba miền đất nước để nghe tiếng hát sum vầy của Hội Trùng Dương. Xin Hồn Thiêng Sông Núi phù hộ cho con thuyền nước Nam được anh dũng oai hùng chen chân cùng thế giới


Mặc thời gian tóc pha đôi màu
Mặc đại dương sóng to mưa gào
Đàn chim trong làn chớp xanh
Yêu trời tự do Á Đông
Thương về đồi núi xa xa.



Hạt sương Khuya - Paris 2012